1. Hai-kư – loài hoa đẹp mà lạ

Hai-kư, loài hoa đậm hương sắc nhất của vườn hoa thơ ca Xứ sở Phù Tang – từ giữa thế kỉ XX đã vượt ra biên giới đất nước và trở thành tài sản chung của nhân loại: hai-kư thế giới (world haiku). Sáng tác hai-kư trở thành phong trào rộng khắp từ Đông sang Tây, từ những cây bút nghiệp dư đến với thơ vì lòng yêu cho đến những nhà thơ lớn như Paul Eluard, J. L. Borges… Nhiều hội nghị hai-kư quốc tế được tổ chức, nhiều công trình nghiên cứu… ra đời – 17 âm tiết mà nói được bao điều. Tuy vậy, ở Việt Nam, thơ hai-kư còn ít được biết đến. Buổi đầu, hai-kư chỉ thu hút được một số ít người yêu thơ tham gia sáng tác, phê bình. Tuy cuối thế kỉ XX có thêm một số công trình giới thiệu thơ hai-kư ra đời, nhưng số lượng chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Thơ hai-kư được đưa vào giảng dạy ở các trường trung học của Mĩ, Anh, Pháp… Và ở Việt Nam, tuy chúng ta có mối giao lưu văn hoá với xứ sở Mặt trời mọc khá sớm, nhưng văn học Nhật thực sự vào Việt Nam lại muộn. Trước đây, học sinh Trung học phổ thông (THPT) từng được làm quen với tác phẩm văn học Nhật Bản duy nhất (được chọn giảng) qua truyền thuyết Điệu múa nàng tiên áo lông chim. Các em bước đầu cảm nhận được đặc điểm của tâm hồn dân tộc Nhật: yêu thiên nhiên, lòng nhân hậu, vị tha. Vào những thập niên cuối thế kỉ XX, trong chương trình sách giáo khoa (SGK) Văn học (chương trình cải cách), học sinh còn được làm quen với tác giả Kawabata (giải thưởng Nobel 1968) qua Thủy – nguyệt mang hình tượng trăng – nước đậm màu huyền thọai những mong thu về một Nhật Bản trong chiếc gương soi (Nhật Chiêu). Và cũng là dịp cho các em học sinh tiếp xúc được với một vẻ đẹp “quen mà lạ”, khoảnh khắc mà vĩnh hằng của một thể loại thơ được xem là quốc hồn quốc tuý của nền thi ca cổ điển Nhật Bản. Việc tuyển thơ hai-kư vào SGK, không phải chỉ nhằm “lạ hóa” tạo hứng thú; mà trước hết, ở góc độ liên thông về mặt thể loại, đây là một thể thơ độc đáo, có giá trị nội dung và nghệ thuật cao, là thành quả tiêu biểu cho thơ ca Nhật Bản, thể hiện những đặc trưng triết lí và nghệ thuật phương Đông. Vấn đề chỉ còn ở chỗ… tiếp cận nó như thế nào. Thật không hoàn toàn đơn giản đối với người nước ngoài trong việc lĩnh hội thể loại nghệ thuật ẩn tàng trong cái vẻ không nghệ thuật của Nhật Bản (Vĩnh Sinh).

Khi hai-kư chính thức được đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường THPT, chủ thể của quá trình dạy học – người dạy và người học – đã gặp không ít khó khăn: sự hạn chế về tư liệu tham khảo, sự lạ lẫm đối với thể thơ này cả về hình thức lẫn cảm thức thẩm mĩ… bắt buộc phải có những công trình tìm hiểu sâu và toàn diện hơn về hai-kư, tạo điều kiện cho giáo viên (GV) – người điều khiển – xây dựng định hướng tiếp cận, giúp học sinh (HS) nắm bắt được thể loại thơ còn ít nhiều xa lạ này. Việt Nam và Nhật Bản có nhiều điểm dị biệt nhưng cũng có nhiều điểm tương đồng về văn học, tâm thức văn hóa(1). Cả hai đều có nền văn hoá truyền thống đậm tính nhân bản, giàu lòng cảm thương, yêu cái đẹp, coi trọng sự hài hoà giữa con người và thiên nhiên. Hai-kư mang bản chất cái đẹp tinh giản, thuần khiết, là nhịp cầu hoa thời gian nối dân tộc, con người xích lại gần nhau, thấy mình là một đoá hoa. Nghiên cứu, giới thiệu và học tập thơ hai-kư, dù là chậm ở Việt Nam – với ý nghĩa và niềm tin đó.

2. Hai-kư và vài định hướng tiếp cận hai-kư trong chương trình THPT

2.1. Về thơ hai-kư

2.1.1. Nguồn gốc

Thơ hai-kư bắt đầu từ thể thơ đoản ca (tanka) xuất hiện ở thế kỉ XIII.

Đoản ca (tanka) gồm 31 âm tiết (onji) chia làm hai vế, vế đầu có ba câu 17 âm tiết (5-7-5), vế sau hai câu 14 âm tiết (7-7). Đoản ca là loại thơ xướng họa. Vế đầu có một người khởi xướng, về sau do người khác họa theo, những người sau đó lại nối tiếp như kiểu của hai người trước, cứ thế mà kéo dài hàng trăm, hàng ngàn câu, sau này được gọi là liên ca (renga).

Loại thơ này phổ biến đầu tiên trong cung đình của các vương gia quý tộc. Nội dung thường mang tính giải trí, mua vui trào lộng, nhiều khi dung tục tầm thường. Về sau được phổ biến rộng rãi trong các tầng lớp xã hội.

Đến thế kỉ XVII, Matsuo Basho(2) cách tân nội dung và hình thức thể thơ này. Ông rứt vế đầu 17 âm tiết xây dựng thành một bài thơ độc lập mang đậm chất suy tư, trữ tình.

Buổi đầu, Basho gọi là hokku hoặc haikai, về sau ghép lại thành hai-kư. Thơ hai-kư cực ngắn, chỉ có 3 câu, dài không quá 12-13 từ, bài thơ không cần chấm câu, thường dùng từ ngắt (keri).

Trên thế giới cũng có nhiều thể thơ ngắn, nhưng haikư vẫn là ngắn nhất.

2.1.2. Đề tài, ngôn ngữ

Đề tài thơ hai-kư ưa chuộng những sự vật nhỏ bé, đa dạng với những rung cảm chân thành, giản dị, hồn nhiên mang sắc thái rất Nhật Bản. Đề tài thơ haikư là thế giới tự nó trong khoảnh khắc mang tính gợi cảm. Hai-kư rất giống loại tranh thuỷ mặc mà người Nhật ưa chuộng. Nó là một nét vẽ bất chợt hướng về thiên nhiên bốn mùa, phản ảnh vẻ đẹp và cảm xúc nội tâm của con người, thường được gọi chung là quý đề (kidai).

Hai-kư là loại thơ có vẻ không trọng lời bên ngoài mà hướng vào cái bản chất bên trong. Ngôn ngữ dường như tự nhiên, không dụng công theo tinh thần “trực chỉ nhân tâm”. Ngôn ngữ hai-kư là loại tín hiệu ngôn ngữ phổ biến trong đời sống xung quanh được lọc qua những tâm hồn tinh khiết nên mang tính tín hiệu hằn sâu có sẵn trong tâm thức. Thơ hai-kư ít dùng tính từ, trạng từ với sự can thiệp của cái tôi chủ quan nhằm cụ thể hoá cảnh vật, mà nó chỉ dùng những từ mang tính chấm phá mà khái quát, giản dị mà hàm súc nhờ mối quan hệ giữa các từ như một dòng trôi chảy lửng lờ.

2.1.3. Cảm thức thẩm mĩ

Những cảm thức thẩm mĩ in bóng trong thơ hai-kư là:

Sabi (tịch lặng). Sabi là nguyên tắc mĩ học của văn học nghệ thuật Nhật Bản được nhà thơ Basho vận dụng vào thơ hai-kư, biến thành một đặc trưng thẩm mĩ độc đáo trong thơ. Sabi mang tính chất đơn sơ, tao nhã, trầm lắng, u buồn, tịch liêu nhưng không đưa đến sự chán chường, bi luỵ, oán đời. Đó là vẻ đẹp nâng tâm hồn con người hoà nhập vào chốn thanh cao, tịch lặng, hư không của thế giới. Sabi bắt nguồn từ văn hoá truyền thống của người Nhật, thực chất là yếu tố Thiền trong Thiền học. Thuật ngữ Thiền do từ Dhyana trong tiếng Phạn của Ấn Độ với nghĩa “tịch lự” – một hình thức trầm tư, chiêm nghiệm để đưa tâm hồn con người vào chốn hư không, vắng lặng để giải thoát tâm linh.

Thiền, tiếng Nhật gọi là Zen, từ Trung Quốc du nhập vào Nhật ở thế kỉ XII. Trường phái Thiền Tông được Phật giáo ở Nhật phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng sâu rộng. Thiền không chỉ là tôn giáo mà còn là triết lí sống, trở thành lí tưởng thẩm mĩ trong văn hoá, nghệ thuật Nhật. Tinh thần Thiền thể hiện rõ trong các tác phẩm điêu khắc, hội họa, kiến trúc, trong cách thiết kế nhà cửa, vườn tược, trong cách cắm hoa, uống trà, trong tinh thần của võ sĩ… Thiền ảnh hưởng khá sâu sắc trong nghệ thuật kịch, thơ ca và tiểu thuyết…

Thiền học quan niệm tất cả những thực thể tồn tại trong thiên nhiên đều có linh hồn và bình đẳng như con người. Con người cần phải hoà nhập với thiên nhiên.

Yugen (u huyền). Yugen là khái niệm thẩm mĩ trong nghệ thuật Nhật Bản. Chính sự tịch lặng (sabi) gợi cho ta cảm giác u huyền. Giữa hai yếu tố này có mối tương quan lẫn nhau.

Từ cái nhìn sâu thẳm về một sự vật huyền diệu nào đó trong khoảnh khắc, khiến cho tâm (kokoro) ta xao xuyến ngất ngây, khát khao hoà nhập vào. Nó đem tâm ta chìm đắm trong thế giới mênh mang, lãng đãng u huyền đó. Một con quạ đậu trên cành khô như một chấm đen mà ta nhìn thấy đang tan hoà với màu tối sẫm của hoàng hôn trong buổi chiều thu tịch lặng cuốn hút tâm ta hòa nhập vào thế giới u huyền, tâm và vật nhập làm một, con người và thiên nhiên hoà làm một tồn tại trong sự vĩnh cửu vô hạn.

Wabi (đơn sơ). Người Nhật thường tìm cái đẹp trong sự đơn sơ, bình dị giữa cảnh vật xung quanh ta: một cành lá, một bông hoa trong lọ, một hòn đá trơ trụi xù xì… đều ẩn chứa một sức sống và vẻ đẹp bên trong. Nhà thơ hai-kư phải biết chọn lọc, mô tả những sự vật đơn sơ, tránh sự chói lọi rực rỡ, mà vẫn mời gọi được người đọc thả hồn vào trong. Đó còn là sự đơn sơ trong từ ngữ, không khoa trương, phù phiếm mà chắt lọc, gợi cảm. Điều này không nằm ngoài tâm thức thẩm mĩ phương Đông trong cuộc hành trình tìm kiếm cái vô hạn trong lòng bàn tay…

Aware (bi cảm). Khái niệm này bắt nguồn từ văn học nữ lưu thời Heian (75 – 1186). Bi cảm là một cảm thức xao xuyến, rung động trước cảnh sinh 1y tử biệt. Buồn đau, thương tiếc, sầu muộn là những phản ứng thuộc về nhận thức. Con người nếu biết đón nhận và cảm nghiệm được nỗi buồn đau thì có thể đánh thức được sức mạnh bên trong và thăng hoa. Alfret de Musset, nhà văn Pháp từng nói: “đau buồn làm con người lớn lên.”

2.2. Vải định hướng tiếp cận thơ hai-ku trong chương trình THPT

2.2.1. Định hướng chung

Như đã nói, giảng dạy hai-kư trong nhà trường phổ thông hay mà khó. Hay vì HS được làm quen với một thể thơ tinh hoa của một dân tộc với tất cả sự tinh tế, nhạy cảm. Khó, bởi khoảng cách không gian, thời gian, về cảm thức thẩm mĩ, cách tư duy. HS quen với nhịp sống nhanh, hiện đại, thiên về tư duy duy lý cụ thể – phân biệt rõ ràng. Trong khi hai-kư thuộc về thơ cổ điển – ngay cả việc tiếp cận một đỉnh cao cổ điển của một nền văn học gần gũi là Trung Hoa cũng đã là một khó khăn đối với HS mà thơ hai-kư lại là sự hàm súc, mơ hồ, trực cảm… đẩy đến tột cùng. Người GV phải làm nhiệm vụ bắc một chiếc cầu nối – nối cổ điển – hiện đại, đưa HS về một miền “đẹp xưa” ngát hương.

Theo tinh thần đổi mới trong việc dạy và học hiện nay, tiếp cận thơ hai-kư cũng theo các hướng chung:

– Tích hợp văn hóa
– Tiếp cận văn bản
– So sánh – đối chiếu
– Vận dụng – thực hành

Dạy và học theo hướng tích hợp trong sự đổi mới hiện nay được xem là nguyên tắc. Phải đặt thơ hai-kư trong tổng thể tinh thân Nhật Bản: hướng về Đạo. Cái Đạo thuần khiết vươn tới cái tuyệt mĩ. Đặc trưng thẩm mĩ của hai-kư là hành trình gió bể mây ngàn tìm ra được nét tuyệt diệu của vạn vật (mono no aware) trong những cái đơn sơ, giản dị và gần gũi thường ngày. Đúng như người ta đã nhận xét: Nghệ thuật Nhật Bản này sinh chính từ sự tôn thờ vẻ đẹp toát ra từ tổng thể hoà điệu của thế giới xung quanh. Một dãy núi, con suối, dòng thác… trong thơ, trong họa, trong hồn… Là tự nó ngàn đời được ngưng đọng trong khoảnh khắc chuyển hoá – tương giao. Thơ hai-kư là tinh hoa văn hoá, văn học nghệ thuật Nhật Bản, nó đẹp thực sự bất ngờ và giàu ý nghĩa vô cùng khi tinh thần hài cú đạo ấy được đặt trong tương quan hoa đạo, trà đạo, vườn đá, tranh thuỷ mạc, sân khấu Nô, trong ánh sáng bên trong của mĩ học Thiền… Nếu hỏi đặc điểm nổi bật về mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người được thể hiện như thế nào trong các bài thơ của Basho và Buson, bạn có thể trả lời, đó là sự gần gũi, hoà hợp, đồng nhất. Bạn có thể nghe F. I. Smit nói trong cuốn Thiên nhiên Nhật: “Cảm xúc về cái đẹp, khuynh hướng chiếm ngưỡng vẻ đẹp là đặc trưng tiêu biểu cho mọi người Nhật – từ người nông phu cho đến nhà quý tộc. Bất cứ người nông dân Nhật Bản bình thường nào cũng là một nhà mĩ học, một nghệ sĩ biết cảm thụ cái đẹp từ trong thiên nhiên”. Còn nói như Suzuki: bạn đừng có ngắm bức tranh, mà hãy bước vào, là nó. Bạn là hoa anh đào, là đỗ quyên…

Theo hướng tích hợp này, người dạy và người học có thể khai thác những trang Web- site văn hoá – du lịch Nhật, có một sự kết hợp hài hoà giữa hội họa và thơ ca như Buson đã từng vận dụng để sáng tạo – sẽ giúp cho ta tiếp nhận trọn vẹn hơn. Lòng yêu cái đẹp, thật tốt biết bao, khi nó hồn nhiên và có tính trực giác. Buson là một họa sĩ có tài nên thơ ca của ông giàu màu sắc, nhiều ấn tượng. Ông đã sáng tạo ra thể loại haiga (bài họa), một loại tranh có lối vẽ đơn sơ, giản dị giống với hai-kư, nhiều bài thơ của ông, của Basho như được truyền thần lại trong những nét vẽ tài hoa. Nhận xét về Vương Duy, Tô Đông Pha đời Tống có nói: “Thi trung hữu họa, họa trung hữu thi” (trong thơ có họa, trong họa có thơ). Nhưng có lẽ không có loại thơ nào lại gần gũi đến đồng nhất với họa như hai-kư. Với tinh thần này, thơ của Buson tức là họa, họa của Buson tức là thơ – có thể nói như Diệp Biến, đời Thanh: “Cho nên, họa là thơ vô thanh của trời đất, thơ là họa vô sắc của trời đất”. Không nhất thiết phải trong tiết dạy, GV vẫn có cách giúp cho HS năng lực vận dụng tổng hợp các tri thức và kỹ năng của văn chương và kiến thức văn hoá nghệ thuật Nhật Bản.

Với mục tiêu và nguyên tắc tích hợp, việc chọn văn bản tác phẩm những bài thơ của Basho, Buson là theo thể loại (kết hợp trên trục lịch sử văn học). Khi tổ chức dạy học phải chú trọng đặc trưng thể loại. Hai-kư thuộc phạm trù thơ cổ điển phương Đông. Dạy và học thơ hai-kư phải luôn ý thức những vấn đề: những điểm cần lưu ý về đặc trưng thể thơ này – thông qua việc đọc – hiểu chỉ ra được cái hay và đẹp ở nội dung nghệ thuật cụ thể ở một bài thơ – phương thức tìm hiểu, tiếp cận thơ hai-kư sao cho tốt nhất. Vẻ đẹp thơ hai-kư có làm giàu tâm hồn cho chính bản thân bạn trong cuộc sống hôm nay? Đó cũng chính là định hướng tiếp cận thông qua bốn bước họat động chiếm lĩnh bài thơ hai-kư được một số nước phương Tây ứng dụng cho HS: Đọc (Read) – Viết (Write) – Nghĩ (Think) – Phản tư (Critical Reflection – Suy ngẫm phản hồi tự nhận ra mình).

Theo hướng tích hợp này, trên trục lịch sử văn học Việt Nam, tác phẩm văn học nước ngoài được lựa chọn tương ứng thể loại một cách tương đối. Thơ hai-kư (Nhật Bản) được đặt bên cạnh thơ Đường (Trung Quốc), tinh hoa thơ cổ điển Việt Nam với những tác giả như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… rất tiện cho người dạy và người học vận dụng kĩ năng so sánh đối chiếu trong cảm thụ và phân tích thơ.

Tất nhiên, sự so sánh ở đây phải hợp lí, đúng mực phù hơn với phạm vi biểu hiện của đối tượng. Có thể so sánh trên một bình diện cấp độ (hình ảnh, hình tượng; cây liễu, hoa anh đào, chim cuốc, chùa xưa…; đề tài: hồn thu, nét xuân…; phong cách – thời kì văn học: Basho Buson Issa và cả nhà thơ Đường, nhà thơ Việt Nam đậm chất mĩ học Thiền như Vương Duy, Đỗ Phủ, Lý Bạch, Huyền Quang…). So sánh nhằm chỉ ra được những nét riêng độc đáo của từng loại mang tâm thức, tính cách dân tộc mình và phát hiện được những quy luật chung của thơ cổ điển phương Đông.

Cũng là trên nền tảng những tương cận, đồng cảm tâm thức văn hoá phương Đông, Trương Chiêu vào thế kỉ XVII trong U mộng cảnh nhận xét: “Vật cảm ở thiên nhiên không gì bằng trăng, ở âm nhạc không gì bằng đàn, ở động vật không gì bằng chim quyên, ở cây không gì bằng liễu”. Đó là cái đẹp, vật cảm của nền thơ ca Trung Hoa mà cũng rất đỗi thân quen trong thơ ca cổ điển Việt Nam. Và chúng ta thứ làm một dấu nối sang tâm thức văn hoá Nhật, có bao sự gặp gỡ đồng điệu và giàu có thêm với bao nét độc đáo, tinh tế. Đọc hiểu ở sự liên văn bản này, vừa giúp cho HS có được kiến thức cơ bản về đặc trưng thể loại hai-kư cực ngắn, vừa cảm được vẻ đẹp tương đồng và độc đáo của thơ cổ điển phương Dòng (đối sánh với tứ tuyệt Đường thi, lục bát – những tinh hoa của tâm hồn dân tộc Nhật Bản – Trung Quốc – Việt Nam được chưng cất còn lại theo năm tháng). Dưới góc độ văn học so sánh, chúng ta sẽ thấy được nhiều điều thú vị, mới mẻ về tính ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, bút pháp chấm phá thuỷ mặc gợi mà không tả, thi pháp quan hệ… trong cấu trúc ngôn ngữ kì lạ của những loại thơ “bé hạt tiêu” này. Tất nhiên, nó có những nguyên tắc thẩm mĩ riêng tạo nên những sắc thái riêng ở những điểm gốc tưởng rất tương đồng. Vẫn là trạng thái nhất tâm nhưng hai-kư không lộ cái chủ quan của ý kiến khẳng định cá nhân, tinh thần tương giao nhất thể hoá tạo nên sự hoà nhập tuyệt đối giữa con ngươi và thiên nhiên trong dòng chảy vô thường mà đượm tính nhân bản. Còn Việt Nam và Trung Quốc vẫn nặng cái ngôn chí, tải đạo, tự ngã, tự tôn, tự tại mang tinh thần phá chấp và giàu lòng trắc ẩn.

Nói gọn lại, thơ hai-kư được tuyển chọn trong SGK có thể còn nhiều điều cần trao đổi thêm (có đúng những bài chứa đựng tinh thần hài cú đạo mang tâm hồn Nhật, bản dịch, cách hiểu, số tiết…). Nhưng chúng ta đang cố gắng theo hướng: Tinh giản – Kiến thức cơ bản – Tích hợp được nhiều mặt (sử dụng thêm những phương tiện nghe, nhìn, mạng Internet…).

Hai-kư rất thích hợp với việc phát huy vai trò của chủ thể tiếp nhận nhờ ở tính tự nó, tính mơ hồ, tính gợi mở… trên nền tảng tận chân, sẽ có tận thiện, tận mĩ. Tích cực hoá họat động học tập của HS ở đây nên khuyến khích HS tìm câu hỏi, những câu hỏi mở và có thể có nhiều câu trả lời (như SGK có gợi ý) và GV nên chọn phương pháp giảng bình, không nên phân tích một cách duy lí khô khan áp đặt và rất dễ buồn cười đối với vẻ đẹp thơ hai-kư. Giảng là cung cấp cho HS những tri thức đọc hiểu về thơ hai-kư như cấu trúc, mĩ học Thiền, triết lí thiên nhiên… Bình là cũng “hoá thân”, biến vào, rèn năng lực cảm thụ. Tiếp cận với thơ hai-kư chính là nghệ thuật cảm thụ cái đẹp và phô diễn cái đẹp. Giảng bình là phương pháp cảm thụ và truyền thụ thơ văn mà GV thường sử dụng. Nó dễ mang đậm dấu ấn chủ quan của người bình nên chỉ gợi mở. Phải cho HS chuẩn bị tâm thế tiếp nhận hồn nhiên, trên nền tảng của cảm thức thẩm mĩ, tín hiệu thẩm mĩ… của văn hoá Nhật, văn hoá phương Đông mà di dân vào bản chất của cái đẹp. Âm thanh và thiên nhiên trong mối tương giao kì diệu kia sẽ làm tươi mát giác quan ta. Và hai-kư thuộc loại nghệ thuật giải phóng nhân tính bên trong bạn.

Do số tiết hạn hẹp, GV có thể bổ sung thêm trong hệ thống chuyên để tự chọn ở THPT (Vẻ đẹp thơ cổ điển phương Đông qua một số dạng thức thể thơ độc đáo như hai-kư (Nhật Bản), luật thi (Trung Quốc)…; mĩ học thơ cổ điển và những quan sát, thể nghiệm đời sống…). Đề văn nên xoay quanh vấn đề: tác giả (Basho, Buson) và tác phẩm (văn bản được lựa chọn và mở rộng) đại diện cho thể loại, đặc trưng hai-kư. Ví dụ: Đọc kĩ bài tiểu dẫn về thơ hai-kư của Basho, anh (chị) hăg trình bày ngắn gọn về một vài đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thể loại thơ này. Tữ vẻ đẹp cụ thể từng bài thơ, giúp – HS khái quát đặc điểm chung, biết cách đọc, tiếp nhận… và thậm chí, sáng tạo những bài thơ theo kiểu “kiểu hai-ku”.

Ví dụ: Phân tích một vài bài thơ hai-kư của Yosa Buson để chứng minh rằng thơ ông là “những nét vẽ tượng trưng, chấm phá, linh diệu của một bút pháp nghệ thuật lãng mạn., tài hoa”. Dạng đề nên phong phú, đa dạng gắn thơ hai-kư với trải nghiệm đời sống, ví như: “Hãy làm một cuộc du hành sang xứ sở hoa anh đào theo tinh thân hài cú đạo” (hai-kư no michi: phong cách thơ ca, lối sống thể hiện tinh thần của thơ hai-kư: bình dị, hoà hợp với thiên nhiên, yêu sự vật nhỏ nhoi, sống trọn vẹn từng khoảnh khắc, mỗi ngày thường). Cho HS viết những dòng tâm cảm theo hướng nêu vấn đề mang tính gợi mở. Ví dụ: “Nỗi buồn của tôi biết nói cùng ai”; “Tôi là cây dương liễu”; “Cảm xúc về cây cỏ bốn mùa”; “Cảm xúc và suy nghĩ của anh chị khi mùa thu đến”; “Xuân về, mai vàng, đào đỏ và trắng hoa mơ”; Bản chất thơ hai-ku là nghệ thuật tự tỉnh thức, loại bỏ tạp niệm, đạt đến tánh không, tự nhận ra mình. Qua bốn bước họat động Đọc – Viết – Nghĩ – Ngẫm lại mình khi tiếp cận một bài thơ hai-kư, Osho có nói: “Bạn không nên tin vào đôi mắt người khác. Bạn phải tự mình nhìn những cành hoa lau đẫm ánh sương trăng”.

Ý kiến của anh (chị)?

2.2.2. Tiếp Cận một số bài hai-kư tiêu biểu

Trong chương trình THPT, học sinh… được làm quen với hai nhà thơ lớn – cột trụ của hai-kư, thuộc về hai phong cách đối lập bổ sung cho nhau: Basho, vị thi sĩ Thiền sư với những vần thơ đượm màu Thiền sương khói mơ hồ, u trầm sâu thẳm, và Buson, nhà thơ với những xúc cảm tươi tắn, đậm tính hội họa. Trước khi đi vào cụ thể từng bài thơ như hướng dẫn của SGK nên giúp HS có một ấn tượng chung, cái nhìn tổng quan về cả chùm thơ. Thơ Basho bao trùm hình ảnh thiên nhiên với niềm vắng lặng, hiu hắt. Trong 8 bài được chọn (Ngữ văn 10), trừ 1 bài thơ mùa xuân với hoa anh đào, còn lại 2 bài mùa hạ với tiếng đỗ quyên và ve ngâm, 3 bài mùa thu cùng mùa sương – sương thu – gió thu, 2 bài mùa đông – gió lạnh và cánh đồng hoang. Không có những niềm vui để lộ, những sắc màu rạng rỡ mà sâu lắng một nỗi buồn, những trải nghiệm thẳm sâu của một Thiền sư lữ nhân trên bước phiêu du. Không giống với Buson, 4/5 bài (Sđd) là mùa xuân rạo rực, trữ tình, giàu màu sắc. Trong thơ Buson có sự giao hòa ấm áp giữa thiên nhiên – con người. Có thể kể thêm Issa, tấm lòng giàu thương cảm đa doan, hướng đến những thân phận bé nhỏ đáng thương… Từ cái nhìn bao quát này, HS dễ dàng hơn khi đến với từng bài cụ thể. Nên chăng, không nên phân tích đến các bài thơ được chọn, mà nhấn lướt, tập trung vào những bài tiêu biểu nhất cho đặc trưng thể loại trên nền tương quan chung. Không phải ngẫu nhiên, người phương Tây, nhắc đến Basho lại liên tưởng ngay đến hình ảnh cây chuối nhạy cảm lắng nghe hiu hắt buồn thu, và cứ nhắc đến Buson, người ta liên tưởng đến hình ảnh cánh bướm rập rờn hoa cỏ mùa xuân. Đã từ bao giờ, mùa thu là thi liệu, thi đề, thi cảm… Thu trong thơ Basho trước hết vẫn là ấn tượng thị giác sắc thu, dáng thu (quạ đậu – chiều thu); ấn tượng thính giác tiếng thu “tiếng đêm”: giọt gió – giọt mưa lá chuối… thành màu cảm xúc tĩnh lặng mà cô liêu. Tất cả được chuyển hoá – tương giao mang nhạc cảm lòng người.

Dáng thu tự nó đã giàu sức gợi để tạo nên một sức ám thị, trở thành một tín hiệu thẩm mĩ trong một nét phác thảo rất cổ điển, phảng phất đâu đây trong Thơ mới: “Đôi nhánh khô gãy xương mỏng manh”, cũng tiềm ẩn đâu đây trong miền kí ức nhỏ nhoi mờ sương khói của mỗi chúng ta. Thu về đậu lại lòng người một nỗi buồn mơ hồ mà mang tính nhân văn. “Làn sương thu” kia vẫn nằm trong vòng liên tưởng đồng tâm. Nó gợi lên “Tuổi già hạt lệ như sương”, mái tóc mẹ bạc như sương, hay cuộc đời mờ ảo, hư vô như làn sương thu…?

Cảm thụ thơ hai-kư của Basho và Buson trong sách Ngữ văn 10 (nâng cao)

– Cảm thụ ba bài thơ mùa của Matsuo Basho

Basho là bậc thầy về thơ hai-kư. Trong thơ ông, phần nhiều miêu tả thiên nhiên, đặc biệt thường nói đến bốn mùa: xuân – hạ – thu – đông để phản ảnh tâm trạng và tư tưởng của mình.

Bài 1 và 3 nói về mùa thu, bài 2 nói về mùa xuân. Mỗi mùa được Basho tạo ra mộ tấn tượng khá đậm nét và chọn lựa những từ mùa (quý ngữ) thích hợp. Qua đó, khiến người đọc cảm thụ bài thơ theo ý nghĩ riêng của mình.

Bài 1 hay bài thơ Con quạ được Basho viết năm 1679, lúc ông 35 tuổi. Bài thơ ra đời đã gây một tiếng vang trên thi đàn, được xem là bài hai-kư kiểu mẫu. Từ đó Basho mở ra một phong cách sáng tác mới gọi là Tiêu phong (Shofu). Nhiều người khắp nơi kéo nhau về xin làm đồ đệ Basho. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bài thơ thành công là do ông đã có thời theo Thiền Tông dưới sự hướng dẫn của hai Thiền sư nổi tiếng. Đồng thời vào năm 1792, Basho mang nỗi phiền muộn về mối tình uẩn khúc với nàng Jutei. Những nguyên nhân đó đã thúc đẩy ông dồn tinh lực viết ra bài thơ Con quạ.

Bài thơ như một bức tranh thuỷ mạc đơn sơ mà sâu thẳm, Basho chỉ phác họa vài nét về một cành khô, trên đó con quạ đậu giữa màu sẫm tối của chiều thu. Qua vài nét vẻ đơn sơ, vài từ ngữ ngắn gọn, một đặc trưng của thơ hai-kư đã khiến người đọc nhận biết đó là một cảnh chiều thu tàn tịch lặng (sabi) mà u huyền [yugen]. Trong bài thơ, hình ảnh con quạ vốn tượng trưng cho sự tang tóc, u ám, buồn bã càng gây ấn tượng cho người đọc.

Nếu bài thơ Con quạ, ta phải thông qua thị giác để cảm nhận chiều thu cô tịch thì bài 2, hay gọi là bài thơ Tiếng chuông, ta lại vận dụng thính giác để cảm nhận mùa xuân.

Âm thanh tiếng chuông vọng lại gợi cho ta một cảm giác bâng khuâng không biết tiếng chuông từ đâu đến, từ đến Ueno hay Asakusa. Chuông là biểu tượng của tiếng gọi thức tỉnh. Ở Ấn Độ là biểu tượng của thính giác, từ thính giác mà tri giác (biết được).

Tiếng chuông vọng đến khiến cho Basho bâng khuâng không biết từ đâu đến, dù rằng hai ngôi chùa đó ở gần túp lều của ông. Nhưng rồi tiếng chuông cũng làm cho Basho bừng tỉnh, khi nhìn rõ dãy hoa anh đào quanh túp lều của mình đang nở rộ mới biết đó là mùa xuân.

Mùa xuân ở Nhật là mùa hoa anh đào (sakura) nở, loại hoa này thường nở trong một đến hai tuần. Hoa anh đào là biểu tượng tâm hồn và văn hoá của người Nhật. Dáng hoa nhỏ nhắn, không hương vị, có màu hồng nhạt. Một cây đứng riêng rẽ thì không thấy rực rỡ, nhưng quần tụ lại từng hàng, từng dây thì quá rực rỡ. Hoa anh đào tượng trưng cho sức sống dồi dào và tinh thần đoàn kết hòa hợp của người Nhật Bản.

Bài thơ đã vẻ ra một cảnh tượng mơ hồ: hoa đào như áng mây xa lơ lửng bồng bềnh trước mắt, bên tai nghe vang vọng tiếng chuông tan ra trong không gian rộng lớn, không xác định được cụ thể từ hướng nào. Cảnh tượng đó khiến cho nhà thơ có cảm giác được thưởng ngoạn cái đẹp của mùa xuân và hoà tan tâm trạng cô đơn, trống vắng của mình vào thế giới mênh mang, vô tận đó.

Còn trong bài 3 hay gọi là bài thơ Cây chuối tả về đêm thu. Basho đã dùng những âm thanh gây ấn tượng sâu lắng như tiếng gió thu, tiếng mưa rơi, tiếng tí tách, để miêu tả một đêm thu hiu hắt. Những âm thanh đó phát ra trong đêm rả rích dội vào nhà thơ khi đang nằm cô đơn, lẻ loi trong túp lều nhỏ cạnh cây chuối càng thêm não nuột.

Cây chuối được nói đến trong thơ là loại thân nhỏ, mềm mại, dễ héo tàn. Phật giáo coi cây chuối là sự mỏng manh, không ổn định của vạn vật, và cho rằng: Mọi cấu tạo tinh thần chẳng khác nào cây chuối.

Đọc ba bài thơ trên của Basho, chúng ta có cảm giác không khí trong thơ ông quá tĩnh lặng, êm đềm, ít xao động. Một chiều thu u tịch, một đêm thu hiu hắt, một mùa xuân bảng lãng. Tất cả đó là chất sabi (tịch lặng), một đặc trưng thẩm mĩ trong thơ hai-kư đã thấm đẫm trong thơ ông. Sabi vốn là nguyên lí của Thiền học mà Basho đã từng học hỏi. Thiền đòi hỏi tập trung cao độ đưa tâm tưởng của bản ngã (cái tôi) hòa nhập vào cái tịch lặng vô biên, chốn hư không, không bị bức bối bởi một điều gì trong tâm trí để giải thoát tâm linh, chất sabi trong thơ hai-kư là sự biểu hiện cái tĩnh lặng, trầm lắng, đơn sơ, cô liêu…

Dù chất sabi có gợi cho ta nỗi buồn cô quạnh, lẻ loi, trầm lắng nhưng không hề làm cho con người bi lụy, chán chưởng, óan hận, thất vọng. Người Nhật xem điều đó là tự nhiên, nó là vẻ đẹp của tâm hồn. Điều này, Tagore, nhà thơ lớn của Ấn Độ cũng từng nói: “Đau buồn cũng đẹp như một vòng hoa”. Câu thơ sau đây của Buson cũng nói lên ý nghĩa đó:

Hỡi có đơn
người cũng là niềm an lạc trong đêm thu.
(Lưu Đức Trung dịch)

Basho đã thả hồn mình vào trong ba bài thơ trên để nâng tâm hồn mình hoà điệu với thế giới bên ngoài. Chính Basho đã nói: “Thơ ca chỉ sinh ra từ sự hoà điệu khi ta và sự vật trở thành một, khi ta đã lặn sâu vảo lòng sự vật để nhìn thấy điều gì đó tựa như tia sáng mờ ảo đang giấu ở đấy. Nếu như cảm thức của ta không tự nhiên, nếu sự vật và ta còn li cách thì thơ lúc ấy không còn là thơ ca thật sự nữa mà chỉ còn là một thứ đồ vật giả mạo chủ quan của ta”(3).

– Cảm xúc mùa xuân trong ba bài thơ của Yosa Busan

Basho và Buson là hai nhà thơ hàng đầu về thơ hai-kư, nếu Basho là viên ngọc thì Buson là kim cương của thơ ca Nhật Bản.

Thơ Basho thiên về tả bốn mùa thiên nhiên, còn Buson thích nói nhiều về mùa xuân.

Mùa xuân đối với Buson như là người bạn tình. Trong cuộc đời, ông đã dành một khoảng thời gian 10 năm để du ngoạn lên phía bắc Edo và vùng đông bắc đất nước. Đến đâu ông cũng mang theo rượu để ngồi uống thưởng hoa xuân. Có lần đi trên đường, ông gặp một vườn mận nở hoa, ông trải chiếu xuống đường ngồi uống rượu ngắm hoa mận nở:

Trải chiếu trên cánh đồng

ta ngồi ngắm

vườn mận nở hoa.

(Thanh Châu dịch)

Buson viết trên hai nghìn bài thơ hai-kư, phần nhiều viết về mùa xuân, nhiều bài thơ tuyệt diệu, được mệnh danh là thi sĩ mùa xuân.

Nhiều bài thơ của Buson truyền đến người đọc một cảm xúc về sự kì diệu và u huyền của mùa xuân. Trong chủ đề mùa xuân, Buson thường miêu tả nhiều để tải khác nhau: mùa xuân của tỉnh yêu, mùa xuân của hi vọng, mùa xuân của con người, mùa xuân của tuổi trẻ… Những hình ảnh đó luôn gắn bó với đời sống trần tục.

Trong bài thơ số 1, Buson miêu tả sức sống của mùa xuân như dòng thác đang chảy, mùa xuân dang hiển hiện trước mắt ta với lá non đang tràn đầy. Một mùa xuân sinh sôi nảy nở, cây cối đâm chồi nảy lộc. một sức sống mới, sức sống đó đã được biểu hiện qua hình tượng dòng thác chảy. Thác luôn luôn chuyển động, nước từ trên vách núi tràn xuống, nước len lỏi qua các phiến đã tràn ra sông, chảy ra biển, thác cũng như cuộc sống đời người luôn luôn biến động. Thác còn là biểu tượng tiếng gọi mùa xuân, thúc giục ta hoà vào tiếng reo vui của dòng thác chảy, hoà tan vào màu xanh cây cối, hoa lá để cảm nhận “cây đời mãi mãi xanh tươi”, cuộc sống như mùa xuân bất tận.

Trong bài thơ số 2, Buson lại miêu tả mùa xuân với tình yêu. Bài thơ dịch ra tiếng Việt chỉ với 11 từ, hàm súc.

Trong thơ xuân, Buson hay tả mưa xuân, thường dùng các từ ngữ như: mưa xuân gieo cải, mưa xuân rắc hạt, bụi mưa xuân, xuân vũ… Trong bài thơ số 2 này, Buson tả cảnh mưa xuân lất phất, mưa không nặng hạt, không rét mướt. Dưới mưa xuân có hai người cũng đi, một mặc áo tới, một che ô. Áo tơi và ô là biểu tượng đáng chú ý, loại áo tơi hay áo mưa này làm bằng tranh hoặc rạ, người dân ông dùng để khoác lúc mưa bão, trên đầu đội thêm chiếc nón rơm hình nấm. Ô là vật dụng phụ nữ Nhật Bản thường dùng đi đường để che mưa nắng. Áo tơi trong bài chỉ người con trai, ô chỉ người con gái. Đôi tình nhân này đang sánh vai cùng đi trong mưa xuân. Đó là bức tranh xuân miêu tả con người đang hoà trong mưa xuân nói lên mùa xuân của tình yêu, mùa xuân của tuổi trẻ. Nhìn bức tranh đó ai mà không rạo rực.

Bài số 3 là bức tranh miêu tả mối quan hệ giữa mùa xuân và con người. ở Nhật, cứ mỗi mùa xuân đến là dịp người ta đi du lịch, tham quan các nơi danh lam thắng cảnh, thưởng ngoạn hoa đào nở, đến thăm viếng đến chùa, dự lễ hội và đi mua sắm, đặc biệt đó là cơ hội cho các thiếu nữ đi mua đồ trang sức làm đẹp cho mình.

Hình ảnh du nữ trong bài thơ là nói đến các kĩ nữ (gheisa). Các kĩ nữ là những cô gái biết múa hát, rót rượu, dâng trà, cắm hoa, tiếp khách, có lúc làm gái làng chơi. Nếu là gái làng chơi hạng sang, thường được sống trong các lâu sang trọng, ít được ra ngoài, chỉ loanh quanh trong lâu mình ở.

Buson vừa là nhà thơ, vừa là nhà danh họa cho nên ông rất coi trọng cách kiệm lời, khi đã đủ ý rồi thì không cần nói gì thêm. Thơ ông rất thích hợp với câu nói của Trang Tử: “Có lời là vì ý, được ý rồi thì hãy quên lời”.

Ngôn từ trong thơ Buson giống như những đường nét và hình khối mang màu sắc đậm nhạt trong các bức họa thủy mạc chỉ có ý nghĩa khơi gợi. Đặc trưng quan trọng nhất của một bài thơ hai-kư là không được nói ra, ý tứ tiềm ẩn trong khoảng tịch lặng vô ngôn các từ và ở cuối bài thơ, người đọc tự cảm nghiệm bài thơ.

Buson thường chú trọng đến hình ảnh tượng trưng, từ hình ảnh mà người đọc đoán xét ý nghĩa.

Trong bài thơ số 2, tác giả không dùng nhiều ngôn từ miêu tả. Không tả người con trai, con gái, chỉ dùng hình ảnh áo tơi và chiếc ô cùng đi cũng đủ cho người đọc suy đoán ra ý nghĩa của nó.
Ba bài thơ của Buson trên đây thực sự là ba bức tranh xuân vô giá.

3. Tinh lọc cảm quan cho mình khoảnh khắc

Hai-kư là loại thơ tinh giản, ngại sự rườm lời. Phương Tây dạy thơ hai-kư cho học sinh, sinh viên. Bên cạnh những nội dung, phương pháp, chú trọng bốn bước tự nghiên cứu, họ đã xác định cái đích rất khiêm nhường: Có thể xem đây là bài học đầu tiên nhập môn hai-kư. Bạn biết được hai-kư là gì và tinh thần đặc biệt của nó. Bạn được làm quen với một sở dạng thơ hai-kư tiêu biểu của Nhật Bản và phương Tây nghiên cứu những nét đặc trưng cấu trúc của thơ và có cách nhìn nhận, đánh giá về chúng. Và rồi, viết những bài thơ đầu tiên của bạn. Những bài thơ của riêng bạn, và đặc biệt những bài thơ cũng với tinh thần hai-kư, không nhất thiết 17 âm tiết…

Thơ hai-kư của Basho, Buson đậm đà màu sắc thi vị cổ điển, dễ đi vào lòng người.

Mục đích chủ yếu và giá trị cơ bản của thơ hai-kư là giá trị thẩm mĩ. Vẻ đẹp thơ hai-kư kết hoa trong cảm nhận chân thành của mỗi người. Cái đẹp không đứng trên nền tảng chân thật, bản chất giản dị thì dầu tư tưởng cao cả cũng rối mù, mai một. Dựa trên nền tảng mĩ học (Thiền Á Đông), hai-kư khơi gợi được trí tuệ, cảm xúc giàu tính thẩm mĩ ở những biểu hiện tinh vi, tế nhị, mơ hồ… từ những đoá hoa ngậm hương, những bông lau vờn đẫm ánh sương trăng…

Hãy đọc thơ hai-kư bằng đôi mắt trong của chính mình, gạt bỏ mọi suy lí tạp niệm, tinh lọc cảm quan, nhìn vào bản tính của chính mình, biểu hiện mình, để có được trong đời một nụ hoa cười trong suốt. “Trải nghiệm nghệ thuật hay sẽ phát triển và nuôi dưỡng tâm hồn bạn”(4). Hai-kư có giá trị phổ quát trong mỗi chúng ta. Thơ hai-kư thuộc phạm trù văn học cổ diễn nhưng mang tính đương đại, biểu hiện ở sự phán đoán giá trị, ở hứng thú thẩm mĩ đương đại, như một “tấm gương soi”…

Lưu Đức Trung

(Nguồn: Lê Từ Hiển – Lưu Đức Trung (Biên soạn, tuyển chọn), Hai-kư Hoa thời gian, Nxb Giáo dục, 2007)

(1) Xem thêm: Đoàn Lê Giang, So sánh quan niệm văn học trong văn học cổ điển Việt Nam và Nhật Bản. Tạp chí Văn học, số 9-1997.

(2) SGK viết: Ma-su-ô Ba-sô

(3) Dẫn theo Nhật Chiêu: Basho và thơ hai-kư. NXB Văn Học – Khoa ngữ văn và báo chí, Trường đại học Tổng hợp TP.HCM, 1994.

(4) Daisaku Ikeda, Con đường tuổi trẻ. NXB Trẻ, 2005.