Thiền sư Basho và thi hào Nguyễn Du là Trăng. Ánh thơ của họ đang soi chiếu xuống những kiếp người u ám, đoạn trường. Những vần thơ linh diệu băng qua những trăm năm đến với chúng ta, đến những đêm trăng phảng phất u hồn thập loại chúng sinh.
Đó là vào tháng Bảy, trong “trường dạ tối tăm của trời đất” (Nguyễn Du), thi hào Basho lang thang trên những con đường sâu thẳm của phương Bắc, lang thang như một vầng trăng, theo định mệnh riêng của mình.
Đó là mùa cỏ thu. Trong bảy loài cỏ hoa mùa Thu, có một loài cỏ tam diệp màu hồng gọi là hagi (thu), tên cỏ tựa như tên mùa.
Hagi, hãy thử gọi nó là đinh hương. Nó như là một chút thơm rơi, một làn hương phảng phất giữa cõi đời gió bụi, gợi lên thân phận của những cô gái phong trần.
Những cánh hagi hồng thắm dưới ánh trăng một đêm thu phương Bắc, đã làm rung động cõi thơ Basho. Cũng như một cành hồng nhan ở La Thành (Nghệ An) đã từng rung động cõi thơ Tố Như (Nhất chi nùng diễm há Bồng Doanh)…
Đó là một đêm thu. Mệt lử, Basho dừng chân nơi một quán bên đường. Tâm hồn ông vẫn còn in dấu tích một dải Ngân hà chói lọi bắc qua biển hoang vu vào đêm Thất tịch mới rồi:
Biển hoang vu
ngân hà vươn trải
qua đảo Sado.
(Araumi ya
Sado ni yokotau
Ama no gawa)
Ngay cả con sông trên trời kia cũng có bi kịch. Ngay cả tình yêu trên trời kia cũng chia ly nước mắt.
Vừa khi Basho định ngả lưng ngơi nghỉ thì ông nghe giọng nói từ phòng bên vọng sang. Có hai cô du nữ đi hành hương Thần cung Ise đang ở trọ. Và họ đang trò chuyện với một người quen, nhờ nhắn tin về nhà. Trong lời than van của họ, Basho nghe âm hưởng bài thơ của một kỹ nữ xưa kia:
“Nơi những làn sóng trắng
Vỗ vô tận lên bờ
Thân ta là rong biển
Theo dòng đời nhấp nhô
Những đêm tình phù phiếm
Là nghiệp tự bao giờ
Đã rơi tàn thân thế
Cay đắng một đời nhơ!”
Giọng điệu buồn bã của các du nữ và sự mệt mỏi làm Basho ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau, hai cô đến gặp nhà thơ xin đi theo trên đường hành hương bằng giọng khẩn thiết, đẫm lệ: “Chúng tôi không thông thạo đường đi đến Ise nên rất lo âu, sợ hãi. Xin hãy cho chúng tôi tháp tùng. Chúng tôi sẽ giữ khoảng cách chứ không dám đi gần. Các ông là người tu hành, xin hãy hãy từ bi”.
Nhưng vì Basho không đến thẳng Ise nên đành từ chối lời đề nghị của hai du nữ. Không giúp được gì, ông cảm thấy áy náy và thương xót vô cùng.
Vậy mà hình ảnh họ vẫn không tan biến. Các du nữ ấy, cùng với trăng và đinh hương được Basho làm cho bất tử trong vần thơ sau:
Chung quán bên đường
các du nữ ngủ
trăng và đinh hương.
(Hitotsu ya ni
Yujo mo netari
Hagi to tsuki)
Các du nữ trên đường hành hương, xa rời chốn phồn hoa phù thế. Dù nghiệp lực vẫn đi theo họ nhưng con đường đến Ise vẫn có đinh hương, có trăng, có Thần linh, có Bồ Tát. Cuộc đời của họ có thể là rong biển, là đinh hương, là cỏ dại, là bụi đường. Nhưng họ biết có Ánh sáng, có Phật và có Từ bi.
Basho không bỏ rơi họ mà nâng họ dậy. Vì những kiếp đời khốn khổ như thế mà Ngân hà ông nhìn thấy không còn hoang vu nữa. Và cuộc hành hương của Basho không còn hoang vu nữa. Ông đang tìm kiếm gì ở phương Bắc? Trở về với thiên nhiên?
Nhưng trái tim sẽ dẫn đạo mọi cuộc trở về. Mọi cuộc quy hồi rốt cuộc sẽ quy hướng về một nơi thôi: trái tim con người.
Trong trái tim ấy, vầng trăng chiếu rạng và loài cỏ dại mùa thu hagi kia, chung một chỗ ngồi, vô sai biệt.
Trong trái tim ấy, mỗi bước đi đều là hành cước, hành hương. Đến với thần cung Ise, đến với mặt trời, đến với Phật pháp vô biên. Trong trái tim ấy, không phải ta bước vào quán trọ bên đường mà những quán trọ ấy trôi qua chúng ta, trôi qua từng đêm… Mọi nơi mọi chốn đều là những quán trọ trôi qua từng đêm để ta quan sát vô thường. Tự tại Bồ Tát là ta. Nhìn trăng trôi qua, nhìn đinh hương trôi qua…
Đã mấy vạn đêm rồi, từ cái đêm mà Basho đặt vầng trăng, hoa đinh hương và các du nữ vào một quán trọ bên đường, vào một vũ trụ vốn chỉ là một quán trọ mà thôi? Hỡi nhà thơ lang thang không nhà không cửa?
Sóng biển đập vào bờ liên hồi, vô tận. Nghiệp lực đập vào ta khác nào sóng cồn, cũng vô tận liên hồi.
Nhưng nghiệp lực xô đẩy chúng ta thì chúng ta cũng xô đẩy nghiệp lực. Bởi chúng ta khởi đi từ đêm tối nhưng hẹn hò với vầng trăng sáng thiên thu. Như những nàng du nữ kia, những du nữ của Basho, Issa, Whitman và Nguyễn Du.
Mưa tuyết không ai
gái đêm về ngủ
với vầng trăng phai.
(Tama arare
Yotaka wa tsuki ni
Kaeru mesi)
(Issa)
Cô du nữ của Issa “tạm thời” trở về với vầng trăng, biết đâu rồi sẽ có một cuộc trở về thực sự? Ta cũng vậy. Đôi khi ta tìm đến một vầng trăng chân như, đôi khi… Mà vầng trăng ấy thì bao giờ cũng đợi ta, trong đêm tối vô biên, vầng trăng kiên nhẫn đợi.
Watl Whitman, hiền nhân thơ tóc trắng cũng từng ca hát về một cô gái ăn sương:
“Hãy thanh thản và an nhiên với tôi, tôi là Watl Whitman đây, tự do tự tại và cường tráng hào hùng như thể thiên nhiên.
Mặt trời chưa cấm em sưởi nắng thì thể nào tôi cấm đoán chi em,
Nước chưa thôi lấp lánh rập rờn bên em và lá cũng chưa ngưng tiếng rì rào xao xác bên em thì lẽ nào với em tôi lại thôi lấp lánh rì rào.
Cô gái ơi, tôi ước định cùng em một cuộc hẹn hò, và tôi giao em sửa soạn chu toàn và trọng thể đón chờ tôi, làm sao cho xứng,
Và tôi giao em phải bền lòng đón đợi, phải toàn bích vô ngần cho tới khi tôi tới.
Đến lúc đó tôi chào em với một cái nhìn ý nghĩa, một cái nhìn em chẳng phải quên tôi!”.
Whitman cũng đặt cô gái giữa thiên nhiên vô ngại, giữa mặt trời nắng ấm, nước mát rập rờn và lá cây xao xác. Điều còn lại là “em phải toàn bích và vô ngần cho tới khi tôi tới” – cái toàn bích mà Basho và Issa biểu hiện bằng trăng.
Trong cõi thơ Nguyễn Du, hình ảnh những cô gái phong trần thường hiện lên với tất cả nỗi đoạn trường của thân phận phụ nữ:
“Cũng có kẻ lỡ làng một tiết
Liều tuổi xanh bán nguyệt buôn hoa.
….
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”
(Văn tế Thập loại chúng sinh)
Những ca nhi Đạm Tiên, người ca nữ La Thành, người gảy đàn Long Thành và Thúy Kiều, làm vang vọng thơ ca Tố Như như một âm điệu đoạn trường vô cùng day dứt.
ĐIẾU LA THÀNH CA GIẢ
Nhất chi nùng diễm há Bồng Doanh
Xuân sắc yên nhiên động lục thành
Thiên hạ hà nhân lân bạc mệnh
Trủng trung ưng tự hối phù sinh
Yên chi bất tẩy sinh tiền chướng
Phong nguyệt không lưu tử hậu danh
Tưởng thị nhân gian vô thức thú
Cửu tuyền khứ bạn liễu kỳ khanh.
Người ca nữ La Thành ấy cũng muốn tẩy sạch nghiệp chướng của phấn son mà không thể. Nàng đã nói gì với Nguyễn Du, có giống những lời của các nàng du nữ nói với Basho?
Tạm dịch:
Một cành kiều diễm cõi Bồng Doanh
Bước xuống, xuân bay khắp sáu thành
Đời đó, ai thương niềm bạc mệnh
Mồ kia, tự hối nỗi phù sinh
Sống còn son phấn, chưa tan chướng Chết cả trăng hoa cũng tội tình Hồng nhan cõi thế không tri kỷ Đành xuống nghìn thu đợi mắt xanh.
Trong khi các du nữ của Basho đang hành hương thì người ca sĩ La Thành của Nguyễn Du lại ở dưới mồ. Nhưng cả hai đều được thơ ca cứu vớt. Họ đi vào Tịnh độ thơ ca, xứ sở của vô sai biệt, của tình yêu và ánh trăng. Đó là cõi Bồng Doanh mà ở đó, họ là những cành hoa đẹp nhất.
Nếu Basho và Nguyễn Du gặp nhau, có lẽ họ sẽ nói với nhau về trăng.
Có lẽ Basho sẽ nói về trăng mà ông chiêm ngưỡng trong lần leo núi Gassan (Nguyệt Sơn):
Đỉnh mây
Tan bao nhiêu cụm
Cho trăng lên đầy.
(Kumo no mine
Ikustu kuzurete
Tsuki no yama).
Bao nhiêu mây mù ảo vọng phải tan biến đi cho một vầng trăng nguyên sơ xuất hiện? Basho hỏi, câu hỏi cũng huyền bí như trăng.
Và tôi nghe Tố Như đáp bằng một giọng trầm:
Nguyệt dạ không đình nguyệt mãn thiên
Y y bất cải cựu thuyền quyên…
(Đầy trăng vườn trống nguyên tiêu
Nghìn xưa vẫn thế yêu kiều vầng trăng…)
Vầng trăng là một thuyền quyên vạn vạn đời, vẫn nguyên vẹn tự nghìn xưa. Nói như Nguyễn Trãi:
Nước mấy trăm thu còn vậy
Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn này.
Nguyệt bao nhiêu kiếp? Mà ánh sáng của nó vẫn nguyên vẹn soi lên những kiếp đoạn trường của những người con gái mà Basho và Nguyễn Du đã cứu vớt bằng thơ ca?
NNC Nhật Chiêu
(Nguồn: Nhật Chiêu, Ba nghìn thế giới thơm, Nxb Văn học, 2015)